Thursday, February 28, 2013

Tinh thần đoàn kết khoa học ở Việt Nam 'yếu kém'

http://hinhnenso1.com/hinh-nen-dien-thoai-dep,ten mien la gi

Đó là quan điểm của Nguyễn Tuấn Anh, đang học tập và làm việc ở trường Đại học Hàng không vũ trụ Hàn Quốc trong bài viết tham dự diễn đàn: "tại sao khoa học trong nước ít có công trình nghiên cứu đăng trên tùng san nước ngoài". Nguyễn Tuấn Anh đưa ra ba điểm dị biệt giữa Việt Nam và Hàn Quốc về nghiên cứu khoa học, điều này theo anh là rào cản vô hình cho sự đổi thay và phát triển khoa học Việt Nam.

"Thứ nhất, mối quan hệ giữa người với đứa ở Việt Nam nói chung và trong khoa học giáo dục nói riêng chưa thật sự tốt. Những vị giáo sư đáng kính, nghiêm đường, cô giáo, tiến sỹ, thạc sỹ, ai có học vị, học hàm cao giờ đây không được tôn trọng, tôn và đôi lúc còn rẻ khinh, xúc phạm lẫn nhau và ngăn trở nhau phát triển.

Trong khi người có tiền, người làm kinh dinh dù lại đang được tôn trọng, họ còn là "hình mẫu", "thần tượng" cho giới trẻ đeo đuổi. Giới trẻ đeo đuổi những giấc mơ hão huyền trở nên nhà kinh dinh giỏi giống những người bỏ học như Bill Gate hay Mark Zuckerberg, vì họ nghĩ học để làm gì khi tốt nghiệp không tìm được việc hoặc nếu có rồi thì đông lương bọt bèo "không bõ công" học hành.

Trong khi ở Hàn Quốc, giáo sư là chức vị được kính trọng, tôn rất cao. Bạn phải lễ độ cúi gập người mỗi khi gặp bất kỳ vị giáo sư nào. Điều đặc biệt, nhiều công ty quốc gia hay tư nhân Hàn Quốc tôn trọng tri thức và học vị hàng đầu. Nhiều nơi chỉ tuyển tấn sĩ, thạc sỹ và những người này có mức lương khác hẳn. Nhờ đó nước Hàn đã kích thích nhu cầu học tập và nghiên cứu. Người Hàn xác định phải học mới có công ăn việc làm ổn định, và học tập trở nên nhu cầu lớn không chỉ mỗi cá nhân chủ nghĩa mà của cả từng lớp.

Thứ hai, ở Việt Nam ý thức kết đoàn và hiệp tác trong nghiên cứu khoa học còn yếu kém, rời rạc, thiếu giao hội vì nhiều căn do mà phần nhiều do lợi. cá nhân chủ nghĩa. Tại Hàn Quốc, người ta hiểu rằng bạn có thể đi nhanh khi đi một mình nhưng chẳng thể đi xa. do vậy họ luôn khuyến khích làm việc và cần lao tập thể trên ý thức hiệp tác và quý trọng lẫn nhau. bởi vậy, họ rất dễ hiệp tác và làm việc với kết quả tốt nhất.

Thứ ba, ở Hàn Quốc, ban bố nghiên cứu trở nên một tiêu chí nép đối với người học tiến sỹ, thạc sỹ và tất nhiên cả giáo sư. Họ đặc biệt tôn trọng việc đăng các bài báo trên các tùng san nức tiếng thế giới, nó nghe đâu là đích sống trong học tập hay nghề của họ.

Hơn nữa, người làm thuê tác học thuật được tạo điều kiện tối đa về vật chất và ý thức để sống và làm việc. Mọi người cần lao rất hăng say, tâm huyết, có lý tưởng, rất điều độ và hiệu quả.

Tại các trường đại học và cơ sở nghiên cứu, mỗi giáo sư được cấp phòng làm việc riêng, họ có thể lập ra phòng thí điểm riêng tuyển sinh viên nghiên cứu ngay khi học đại học. Giáo sư có thể làm việc bất cứ lúc nào trong ngày, thường là từ 9h sáng đến 12h đêm như lề thói cá nhân chủ nghĩa. Nhưng đổi lại, họ có những kỳ nghỉ dài, nhiều trợ cấp và mức lương rất cao.

Mỗi sinh viên phải có đề tài nghiên cứu riêng để viết báo và luận văn tốt nghiệp. Ở mỗi phòng thí điểm luôn có các chủ đề cho sinh viên tham dự ngay khi đang học. Và hơn thảy, Hàn Quốc học những thứ mới nhất để làm ra những cái mới nhất, tạo ra trào lưu mới nhất. Trong khi, ở Việt Nam, bạn học tri thức cách đây 50 năm và được gọi là tri thức chuyên ngành mà bạn dùng khi ra trường. có nhẽ phải đến bậc tiến sỹ việc viết và đăng báo khoa học mới là đề nghị nép. tối dạ hơn, mọi người thường nghĩ phải học hai bằng, sáng học bằng chính tối học bằng phụ, học lấy bằng chứ không cần tri thức hoặc hiệu quả vì có "đồng tiền lo lót". Tư tưởng này khiến phần đông sinh viên Việt không hề có kết quả nghiên cứu khoa học và hiệu quả làm việc kém khi ra trường.

Đó là ba nét chính mà tôi cảm nhận về sự dị biệt trong công tác giáo dục và nghiên cứu khoa học ở Hàn Quốc và Việt Nam. Sự dị biệt này là căn do Hàn Quốc vực dậy phát triển từ một nước nghèo bậc nhất thế giới trở nên nước giàu và phát triển bậc nhất thế giới trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là khoa học công nghệ. Nhưng chính sự dị biệt đó lại lý do vô hình dẫn tới sự bê trệ và cực kì trong công tác giáo dục và nghiên cứu khoa học nước nhà. Việt Nam cần học tập và đổi thay triệt để trong thời kì ngắn nhất thì mới vấn nguồn lực trong nước và người Việt ở nước ngoài trở về xây dựng quê hương".

Kinh nghiệm ban bố của các nghiên cứu viên trong nước

Hinh nen dep nhat,ten mien hay


Một giảng viên tại viện nghiên cứu thuộc Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội trong diễn đàn "Vì sao các nhà khoa học trong nước ít có công bố quốc tế" nói về những cầm cố của bản thân và nơi chị đang làm việc, mọi người vẫn luôn cầm cố và có rất nhiều bài đăng trên tạp chí thế giới.

"Trên diễn đàn của VnExpress, tôi thấy phần lớn các ý kiến của lãnh đạo hoặc nghiên cứu sinh tiến sĩ tại nước ngoài. Với cương vị là giảng viên hoàn toàn đào tạo trong nước, tôi xin có một số đóng góp để vấn đề đa chiều hơn.

Tôi là người đào tạo cử nhân, đến giờ là nghiên cứu sinh, hoàn toàn trong nước, thế nên theo ý kiến một số người tôi có thể thuộc thành phần "bỏ đi" đối với khoa học, hoặc không xứng đáng với chức vụ giảng viên bây giờ của tôi. Nhưng tôi tự thấy mình cũng chưa đến nỗi "bỏ đi hoàn toàn" vì tôi vẫn còn những đam mê nghiên cứu và luôn cầm cố tiếp cận đến các chuẩn quốc tế.

Tôi viết bài này không nhằm mục đích tham gia các chính sách cứu giúp nền khoa học Việt Nam, mà chỉ đóng góp cách làm của tôi, của cơ sở đào tạo tôi học trong nước làm thế nào để đấu đăng các công trình đạt chuẩn quốc tế.

Nếu các nghiên cứu sinh ở nước ngoài căn cứ vào điều kiện bên ngoài mà áp vào điều kiện Việt Nam, không ai nói các anh/chị sai nhưng là quá duy ý chí. Tôi tin rằng những gì tôi viết ra là tương đối khách quan và có thể áp dụng phần nào.

Câu hỏi đầu tiên tôi đặt ra cho mình sau khi học đại học là làm thế nào để tôi có thể được làm nghiên cứu. Đầu tiên tôi học tập tác phong làm khoa học, đó là đọc tài liệu, sách vở, tìm đề tài đã có tiền tài trợ của các thầy đi trước, thực hiện nghiên cứu và viết bài báo công bố.

Qua quá trình làm việc, dù chỉ là công bố trong nước nhưng tôi rèn luyện mình tác phong khoa học cần có, được các nhà khoa học khác phản biện và bằng lòng. Đó là điều quan trọng, cũng là bước đi đầu tiên cho những người trong nước như tôi, thay vì than thở tôi phải làm ở nước ngoài, hay vì trong nước nền khoa học "tụt hậu" tôi không làm đâu, hay làm làm gì rồi vứt xó để đó.

Bước đầu tiên tôi xác định là phải có bắt đầu thì mới có phát triển. Tiếp theo sau khi viết khá ổn các tạp chí trong nước, tôi tham gia các hội nghị quốc tế, tập viết các chuyên đề để nâng cao tiếng Anh khoa học, và tiếp cận dần cách nhìn của thế giới.

Tôi liền tù tù độ các Cơ sở dữ liệu quốc tế đọc các trích yếu để có cái nhìn tổng quan, vừa là tìm các đối tượng nghiên cứu mà thế giới quan tâm. Tôi tìm những đối tượng vừa sức với mình nghiên cứu, và tôi đã đạt các kết quả khả quan có thể tương đối với các công bố quốc tế mà tôi đọc (đều thuộc chuẩn ISI) nhưng tôi vẫn không công bố được. Tôi hiểu rằng, tôi chưa từng có kinh nghiệm viết bài quốc tế, không biết văn phong cách viết thuyết phục người khác, không có thơ bàn bạc, phản hồi để các biên tập viên tin vào kết quả trong nước của tôi.

Tôi lại đấu hành trình tiếp cận với các chuẩn quốc tế. Cách tôi làm là tìm thầy hướng dẫn từng học nước ngoài và quan trọng là khi về Việt Nam các thầy vẫn tiếp nghiên cứu và vẫn đều đều ban bố quốc tế. Thầy đặt cho tôi đề nghị để bảo vệ nghiên cứu sinh trong nước như sau: có chí ít 7 bài báo ban bố, trong đó chí ít hai bài có chỉ số SCI mà tôi phải đứng tên trước nhất. giờ tôi lại tiếp nghiên cứu nhằm đạt điều đó và tôi tin mình sẽ làm được vì tôi có năng lực, niềm say mê và rất nhiều nghiên cứu sinh trong nước của cơ sở đào tạo đã tốt nghiệp trên "chuẩn đầu ra" như vậy.

Kinh nghiệm của ITIMS, Đại học Bách Khoa
Nói về cách làm nơi tôi đang học tập và nghiên cứu là Viện Đào tạo quốc tế về Khoa học nguyên liệu (ITIMS), thuộc đại học Bách Khoa Hà Nội, nếu các bạn kiêng sẽ thấy đây là viện rất nhỏ với tầm chục giảng sư chính thức nhưng ban bố gần 20 bài báo khoa học quốc tế một năm.

Điều trước nhất nhận thấy ở viện là các thầy cô đều truyền được niềm say mê nghiên cứu cho nghiên cứu sinh. Bản thân chính họ là những tấn sĩ từng học nước ngoài trở về. Tuy nhiên, với nghị lực bản thân, họ vẫn tiếp nghiên cứu để ban bố quốc tế ngay cả trong điều kiện làm việc Việt Nam.

Khi ở nước ngoài, việc thực hành nghiên cứu dễ dàng hơn nhiều do có các cơ sở nền tảng trước đó, song ước chừng bao lăm tấn sĩ trở về nước vẫn tiếp con đường nghiên cứu với lên đường điểm là con số 0, trên tay là tấm bằng đào tạo tại nước ngoài. Chính nên chi tôi nhìn thấy họ, tin cậy vào họ hơn là lời nói suông của các nghiên cứu sinh đang làm tại nước ngoài.

Thứ hai, viện ITIMS thực hành phối hợp các nguồn lực nghiên cứu. Nguồn lực nghiên cứu của viện tụ tập lớn vào số lượng nghiên cứu sinh, học viên cao học hàng năm là những người thực hành thử nghiệm, đo đạc trên cơ sở định hướng của thầy cô đi trước. Chính lực lượng này là lực lượng tương trợ lớn cho công việc nghiên cứu tại viện.

Thứ ba, ITIMS xác định làm thế nào để bảo đảm chất lượng đào tạo, cũng như chất lượng của nguồn lực nghiên cứu này. Khi bất cứ ai chọn cơ sở đào tạo tại đây, hồ hết đều có chút năng lực và niềm say mê nghiên cứu, còn người học chỉ lấy bằng sẽ không dại gì chọn nơi này, vì viện có một chương trình học rất nặng, với hội thảo, đàm luận, viết mỏng thẳng tuột, họp nhóm nghiên cứu một tuần một lần. Chính việc nâng cao đề nghị này làm cho các học viên như tôi buộc phải vận động và làm việc hăng hái.

ITIMS luôn bảo đảm chất lượng nhờ quản lý chuẩn "đầu ra", chỉ khi nghiên cứu có chí ít hai bài báo có chỉ số SCI đứng tên trước nhất, thầy mới ký cho bạn bảo vệ. Dù bạn có làm 3 năm 4 năm thậm chí 7, 8 năm tùy thuộc cụ của bạn, nên chi đương nhiên chẳng ai muốn bò ra chục năm không được bảo vệ, đành phải cụ phấn đấu làm việc nghiên cứu hăng hái thôi.

giả dụ quốc gia kiên tâm thắt chặt các chuẩn đầu ra và chuẩn đầu ra này là chuẩn thế giới xác nhận thì tôi nghĩ một phần sẽ được giải quyết tồn tại của nền khoa học nước nhà, mà tôi gọi là một mình một ngựa. thí dụ như giáo sư, phó giáo sư cũng phải có chuẩn nào đó. Học viên cao học, nghiên cứu sinh cũng có chuẩn đầu ra, thí dụ chí ít một bài đăng ISI chả hạn.

Xin đề tài, nhận đề tài phải dựa trên số chuẩn bài báo quốc tế ban bố trước đó, tôi nghĩ nạn chạy đề tài sẽ bớt đi phần nào. Đề tài nhận rồi, cũng cần có chuẩn chứ đừng tự ngồi gật gù phản biện với nhau rồi xếp loại cho qua, không đạt chuẩn trả lại tiền nghiên cứu cho quốc gia. Còn chuẩn quốc tế thì tùy từng ngành mà xét, như ngành của tôi thường dùng chuẩn ISI để đánh giá.

Tôi không có điều kiện đi học nước ngoài, do đó cái nhìn trong nước của tôi có thể eo hẹp, nhưng đó là cái nhìn thực từ tiễn Việt Nam. Tôi hy vọng sẽ đóng góp phần nào quan điểm cho vấn đề đa chiều hơn lên đường từ mong muốn của bản thân để nền khoa học Việt Nam phát triển.